Thông tin Hội nghị gan mật Châu Á – Thái Bình Dương (New Delhi, India, 14 – 18/3/2018)
Hội nghị gan mật Châu Á - Thái Bình Dương (APASL) lần này đưa ra tiêu đề ‘Hepatology: The next genre’, những bệnh gan khác tiếp theo...Hội nghị nói đến những bệnh gan kết hợp viêm gan virus, những biến chứng của bệnh gan mạn tính: xơ gan, ung thư gan...bệnh lý gan tự miễn, gan di truyền, chăm sóc trước và sau ghép gan. Các nhà khoa học tiếp tục đưa ra những phương pháp chẩn đoán mới, phương pháp điều trị mới nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh....
I – Viêm gan B
Ngoài những marker hiện có để chẩn đoán viêm gan B, 2 marker mới đã được tìm ra giúp theo dõi quá trình phát triển của virus và dự đoán nguy cơ ung thư gan:
- HBcrAg: đây là marker đo được 3 protein của HBV là kháng nguyên core của HBV, kháng nguyên e và protein Pcc2r. HBcrAg liên quan chặt chẽ nồng độ HBV-DNA và cccDNA. Nghiên cứu cho thấy rằng những bệnh nhân ung thư gan thường có nồng độ HBcrAg cao.
- HBV-RNA: đây là sản phẩm mã hóa trực tiếp cccDNA, nó vẫn tồn tại với nồng độ thấp sau nhiều năm điều trị bằng thuốc ức chế virus.
* Vấn đề điều trị viêm gan B vẫn là vấn đề nan giải, chưa có thuốc điều trị hết viêm gan B, chỉ có thuốc ức chế virus lâu dài. Hiện có thuốc Tenofovir thế hệ mới TAF, ít tác dụng phụ trên xương và thận.
Hiện tại có rất nhiều thuốc đang nghiên cứu theo cơ chế miễn dịch, mong điều trị khỏi virus B trong tương lai: ABX-203, GS-4774, GS-9620, CYT107, TG-1050, T cell receptor insertion, Anti PD-1/ Anti PD-L1
II – Viêm gan C
- Viêm gan C liên quan đến nhiều bệnh trong đó quan trọng là bệnh thận, HCV sẽ làm bệnh thận dễ đến giai đoạn cuối và ngược lại, bệnh thận sẽ làm bệnh gan dễ diễn tiến mau đến giai đoạn xơ gan và ung thư gan. Hiện tại đã có thuốc điều trị bệnh viêm gan C và bệnh thận giai đoạn cuối: Grazoprevir/Elbasvir, Glecaprevir/Pibrentasvir.
III – Bệnh lý đường mật: Xơ gan mật nguyên phát (PBC), Viêm xơ đường mật (PSC)
Những bệnh lý đường mật này dễ đưa đến bệnh gan giai đoạn cuối và ghép gan. Ursodeoxycholic acid (UDCA) làm cải thiện phần nào mô học bệnh và kéo dài thời gian đưa đến ghép gan. Tuy nhiên khoảng 30% bệnh nhân không đáp ứng với điều trị này. Hiện tại có những thuốc điều trị mới cho nhiều hứa hẹn: Detoxification of hydrophobic bile acid, Obeticholic acid, Fibrates, Ileal bile acid transporter inhibitors.
IV – Gan nhiễm mỡ
Tỉ lệ gan nhiễm mỡ ngày càng tăng trên thế giới, không những ở các nước phương Tây khoảng 17 - 46% mà ở các nước châu Á cũng ngày càng tăng. Gan nhiễm mỡ cũng đưa đến xơ gan và ung thư gan, có khi nhiều hơn cả viêm gan C. Người ta thấy rằng gan nhiễm mỡ đứng hàng thứ hai trong những nguyên nhân gây ghép gan. Nếu ở giai đoạn gan nhiễm mỡ khả năng xơ gan 3%, nếu giai đoạn viêm gan mỡ khả năng xơ gan 30%.
- Chẩn đoán gan nhiễm mỡ có các chỉ tiêu sinh hóa: NAFLD score, FIB-4, APRI, BRAD, Enhanced liver fibrosis score, Fibrotest, Hepascore. Các phương tiện chẩn đoán hình ảnh: Siêu âm đàn hồi gan, MR đàn hồi....
V – Ung thư gan
1. Nếu chỉ 1 khối u < 2cm hay tối đa 3 u, < 3cm, chúng ta có thể phẫu thuật, ghép gan, đốt nhiệt...thời gian sống trung bình 36 tháng
2. Nhiều khối u:
TACE có thể kết hợp hóa trị toàn thân. Thời gian sống trung bình 16 tháng.
3. Nhiều khối u lan tỏa:
Sorafenib, Lenvatinib, Regorafenib, Cabozantinib
Nivolumab (PD-1)
Y-90
Nếu phối hợp nhiều phương pháp điều trị, có thể kéo dài sống còn còn cho bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối từ 1 - 2 năm.