1. Định lượng fibrinogen
 

Fibrinogen (yếu tố I) là một protein được tổng hợp tại gan. Nó được dùng trong quá trình đông máu. Fibrinogen bị ly giải bởi enzyme thrombin thành fibrin peptides ( đoạn ngắn protein) trong quá trình đông máu bình thường. Thrombin cũng hoạt hoá yếu tố ổn định fibrin ( yếu tố XIII) rồi sau đó gắn kết fibrin vào trong phức hợp lưới, kết thúc quá trình đông máu thành mạch. Tiểu cầu đến kết cụm tại nơi tổn thương, tại thụ thể gắn protein ở màng tế bào tiểu cầu với fibrin peptides.

Tốc độ biến đổi fibrinogen thành fibrin phụ thuộc vào chức năng và nồng độ fibrinogen và vào lượng thrombin thêm vào hệ thống xét nghiệm. Với sự có mặt một lượng thừa thrombin, thời gian đông của mẫu huyết tương pha loãng sẽ tương quan trực tiếp với nồng độ fibrinogen.

Nguyên lý: Cho thrombin vào huyết tương, huyết tương sẽ đông và thời gian đông tuỳ thuộc vào lượng fibrinogen. Dựa trên cơ sở đó người ta pha dung dịch fibrinogen chuẩn ở các nồng độ khác nhau rồi cho thêm thrombin. Kết quả lần xét nghiệm này sẽ tạo được một đường cong nồng độ fibrinogen – thời gian. Huyết tương bệnh nhân được pha loãng và xét nghiệm thời gian đông với thrombin rồi đối chiếu đường cong chuẩn sẽ biết nồng độ fibrinogen.
 

Ý nghĩa:

- Kết quả bình thường từ 2 – 4 g/l

- Fibrinogen tăng trong:

· Nhiễm khuẩn cấp tính.

· Bệnh Hodgkin, sarcom, bệnh bạch cầu tủy mạn, viêm khớp nhiễm khuẩn, bệnh collagenose.

· Viêm thận mạn tính, trạng thái nghẽn mạch..

- Fibrinogen giảm có thể do tiêu thụ (đông máu rải rác giai đoạn 3), tiêu fibrin (tiêu sợi huyết), xơ gan hay mắc bệnh không có fibrinogen.
 

2. Nghiệm pháp Von-Kaulla
 

Nguyên lý: Fibrin được hình thành và sẽ bị tiêu nhờ plasmin, bình thường thời gian để tiêu cục máu khoảng 2 ngày. Bằng phương pháp giữ lại các chất kích thích tạo plasmin (euglobulin) thì sau khi đông thời gian tiêu cục đông bình thường là hơn 1 giờ. Theo dõi thời gian tiêu cục đông sau khi đông của huyết tương đã loại bỏ chất ức chế, giữ lại chất kích thích tạo plasmin để đánh giá mức độ tiêu sợi huyết.

Huyết tương được pha loãng rồi toan hóa nhằm tách euglobulin (là thành phần có chứa các chất hoạt hóa plasminogen mà chủ yếu là t-PA, plasminogen và fibrinogen) đồng thời loại bỏ tất cả thành phần ức chế quá trình tiêu cục đông. Rồi sau đó cho euglobulin đông trở lại (như làm Howell) nhờ đó mà có thể theo dõi sự tiêu của euglobulin được dễ dàng hơn.

Ở người bình thường, thời gian tiêu euglobulin, từ khi đông đến khi tan phải từ 3 giờ trở lên.

Thời gian tiêu euglobulin kéo dài không có ý nghĩa bệnh lý (ngoại trừ trường hợp không có plasminogen, lúc này thời gian tiêu euglobulin sẽ kéo dài vô tận, nghĩa là cục đông sẽ không tan).
 

Biểu hiện tiêu fibrin khi thời gian tiêu euglobulin xảy ra trong vòng 1 giờ đầu, tùy mức độ:

- 0-15 phút : tiêu sợi huyết cấp.

- 15-30 phút : tiêu sợi huyết trung bình

- 30-45 phút : tiêu sợi huyết nhẹ

- 45-60 phút : tiêu sợi huyết thoáng qua.
 

Lưu ý : Có thể có hiện tượng cục đông euglobulin không hình thành được (không đông). Lý do của hiện tượng này có thể do hệ thống hoạt hóa plasminogen quá mạnh cho nên đông đến đâu tan đến đó, nên không còn thấy rõ cục đông nữa; hoặc có thể do đã bị tiêu thụ hết các yếu tố của hệ thống đông máu (DIC) nên không thể đông được.


 

3. Nghiệm pháp Ethanol (NP rượu).
 

Nguyên lý: Khi có quá trình đông máu tức là chuyển fibrinogen thành fibrin. Quá trình chuyển từ fibrinogen thành fibrin như sau: Đầu tiên là monomer hoá các fibrinogen, sau đó polymer hoá tạo sợi huyết. Tuy nhiên vẫn có một ít monomer không polymer hoá được mà kết hợp với fibrinogen và PDF thành một phức chát. Phức chất này sẽ làm huyết tương tạo thành gel trong môi trường rượu ở nhiệt độ lạnh. Lợi dụng tính chất đó người ta cho huyết tương pha trong rượu rồi để ở 4[sup]0[/sup]C và quan sát gel hoá

Các monomer của fibrin là những sản phẩm trung gian giữa fibrin, nó là kết quả tác động phân hủy của thrombin. Khi lượng thrombin thấp thì các monomer không đủ để trùng hợp tạo nên cục fibrin. Các fibrin monomer, fibrinogen và các sản phẩm thoái giáng tạo thành phức hợp hòa tan, những phức hợp này sẽ được phát hiện do bị gel hóa dưới tác dụng của rượu ethanol.

Thực hiện: sau khi lấy máu, trong vòng 1 giờ. Cho 0,5ml huyết tương vào ống nghiệm. Thêm 0,15ml Ethanol (đã pha loãng ½ bằng nước cất ngay trước khi xét nghiệm). Lắc đều và để yên 10 phút ở nhiệt độ phòng. Sau đó nghiêng nhẹ ống đến khi nằm ngang xem có chất keo (gel) xuất hiện không.

Chất keo xuất hiện (kết quả (+)) chứng tỏ có các phức hợp hòa tan trong mẫu nghiệm, bằng chứng của 1 tình trạng DIC. Tuy nhiên kết quả âm tính không loại trừ được chẩn đoán này.
 

4. Bán định lượng D-Dimer hoặc FDPs bởi ngưng kết hạt latex
 

Đây là phương pháp miễn dịch bán định lượng D-Dimer hoặc FDPs (sản phẩm thoái giáng fibrinogen và fibrin) bởi ngưng kết hạt latex đã mẫn cảm kháng thể đơn dòng, sự ngưng kết có thể thấy bằng mắt thường khi nồng độ D-Dimer≥ 0,5mcg/ml hoặc FDPs≥ 2,5mcg/ml.
 

Ý nghĩa : tìm sự tăng lên của các sản phẩm giáng hóa fibrin
 

Thuốc thử:

- Huyền dịch latex mẫn cảm kháng thể đơn dòng chuột chống D-Dimer (hoặc FDPs) người.

- Huyết tương người loại bỏ D-Dimer hoặc FDPs (chứng âm).

- Huyết tương người chứa D-Dimer hoặc FDP (chứng dương).
 

Bình thường:

- Lượng D-DimerHT < 0,5 mcg/ml

- Lượng FDP < 2,5 mcg/ml
 

Khi thấy ngưng kết (XN dương tính) → lượng D-Dimer ≥ 0,5 mcg/ml hoặc FDP ≥ 2,5 mcg/ml.

Khi xét nghiệm dương tính thì thực hiện phương pháp bán định lượng bằng cách pha loãng huyết tương thử nghiệm ½, ¼ , ⅛, … trong đệm glycine và dừng lại ở độ pha loãng không còn hiện tượng ngưng kết.
 

Ý nghĩa lâm sàng: tăng khi:

- Có hiện tượng tăng đông

- Có sự tiêu fibrin như trong DIC