diep-ha-chau-2

Diệp hạ châu là tên thường gọi của 2 cây Phyllanthus amarus và Phyllanthus niruri thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Nghiên cứu của Viện Dược liệu Việt Nam (1987-2000) cho thấy 2 loài Phyllanthus này đều có tại Việt Nam và đều có flavonoid, tannin, acid hữu cơ. Trong thực tế, các nhà khoa học cho rằng nó chỉ là một loại cây với hai tên gọi khác nhau mà thôi.

Gọi là Diệp hạ châu (ngọc dưới lá) vì cây có nhiều quả nhỏ hình tròn giống như hạt ngọc (châu) mọc bên dưới (hạ) các lá (diệp). Dân gian còn gọi là cây chó đẻ hoặc chó đẻ răng cưa, vì người ta thấy sau khi sinh con, những chó mẹ thường tìm những cây thuốc này để ăn. Tại Việt Nam, cây còn có nhiều tên địa phương khác như: Cam kiềm, cỏ Trân châu, Rút đất, Diệp hòa thái,...

Vùng phân bố của Diệp hạ châu khá rộng, cây mọc hoang tại Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới, như Ấn Độ, Trung Quốc, Cu Ba, Peru, Nigeria, Malaysia, Philippines, Guam, Brazil,...

Diệp hạ châu được dùng làm thuốc từ 2000 năm nay. Theo Trung Quốc Cao Đẳng Thực Vật Đồ Giám Bản (1972), Diệp hạ châu có tác dụng thanh can minh mục (mát gan sáng mắt), lợi thủy (trị phù ứ nước), giải độc tiêu tích (ăn uống không tiêu, bụng đầy trướng). Dựa vào các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, cũng như kinh nghiệm của nhiều dân tộc trên thế giới, có thể tóm tắt một số công dụng chính của Diệp hạ châu như sau.

Điều trị viêm gan:

Đây là một trong những công dụng được quan tâm nhiều nhất của Diệp hạ châu. Năm 1982, Break Stone đã gây được sự chú ý đối với toàn thế giới về tác dụng chống virus viêm gan B của cây thuốc này. Những thử nghiệm lâm sàng trên trẻ em với bệnh viêm gan truyền nhiễm bằng một chế phẩm có Phyllanthus amaruscủa Ấn Độ đã cho kết quả nhiều hứa hẹn. Sau 30 ngày uống Diệp hạ châu (900mg/ngày) 50% những yếu tố lây truyền trong máu của virus viêm gan B (sinh kháng thể bề mặt của viêm gan B) đã mất đi. Bột Diệp hạ châu (Phyllanthus niruri) cho kết quả tốt với bệnh nhân viêm gan B khi uống 900 - 2.700mg trong 3 tháng liên tục. Nghiên cứu của Nhật Bản và Ấn Độ trong năm 1980 đã xác định những tác dụng điều trị bệnh gan của Diệp hạ châu là do phyllanthin, hypophyllathin và triacontanal. Wang Shinhua (Đại học Trung Dược Quảng Châu - Trung Quốc), khi so sánh 30 bệnh nhân điều trị bằng Diệp hạ châu trong 6 tháng với 25 bệnh nhân sử dụng Interferon, đã báo cáo rằng: Diệp hạ châu có hiệu quả điều trị viêm gan siêu vi mạn qua việc phục hồi chức năng gan và ức chế sao chép siêu vi B.

 

Tại Việt Nam, khá nhiều công trình nghiên cứu về tác dụng điều trị viêm gan của Diệp hạ châu đã được tiến hành, chẳng hạn: nhóm nghiên cứu của Lê Võ Định Tường (Học Viện Quân Y - 1990 - 1996) đã thành công với chế phẩm Hepamarin từ Phyllanthus amarus; nhóm nghiên cứu của Trần Danh Việt, Nguyễn Thượng Dong (Viện Dược Liệu) với bột Phyllanthin (2001).

Tác dụng trên hệ thống miễn dịch:

Vào năm 1992, các nhà khoa học Nhật Bản cũng đã khám phá tác dụng ức chế sự phát triển HIV-1 của cao lỏng Phyllanthus niruri thông qua sự kìm hãm quá trình nhân lên của virus HIV. Năm 1996, Viện nghiên cứu Dược học Bristol Myezs Squibb cũng đã chiết xuất từ Diệp hạ châu được một hoạt chất có tác dụng này và đặt tên là “Nuruside”.

Tác dụng giải độc:

Người Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc dùng Diệp hạ châu để trị các chứng mụn nhọt, lở loét, đinh râu, rắn cắn, giun. Nhân dân Java, Ấn Độ dùng để chữa bệnh lậu. Theo kinh nghiệm dân gian Malaysia, Diệp hạ châu có thể dùng để trị các chứng viêm da, viêm đường tiết niệu, giang mai, viêm âm đạo,... Công trình nghiên cứu tại Viện Dược liệu - Việt Nam (1987 - 2000) cho thấy khi dùng liều 10 - 50g/kg, Diệp hạ châu có tác dụng chống viêm cấp trên chuột thí nghiệm.

Điều trị các bệnh đường tiêu hóa:

Cây thuốc có khả năng kích thích ăn ngon, kích thích trung tiện. Người Ấn Độ dùng để hỗ trợ chữa các bệnh viêm gan, vàng da, kiết lỵ, táo bón, thương hàn, viêm đại tràng. Nhân dân vùng Haiti, Java dùng cây thuốc này trị chứng đau dạ dày, rối loạn tiêu hóa,..

Bệnh đường hô hấp:

Người Ấn Độ sử dụng Diệp hạ châu để trị ho, viêm phế quản, hen phế quản, lao,. ..

Tác dụng giảm đau:

Kenneth Jones và các nhà nghiên cứu Brazil đã khám phá tác dụng giảm đau mạnh và bền vững của một vài loại Phyllanthus, trong đó có cây Diệp hạ châu - Phyllanthus niruri. Tác dụng giảm đau của Diệp hạ châu mạnh hơn indomethacin gấp 4 lần và mạnh hơn 3 lần so với morphin. Tác dụng này được chứng minh là do sự hiện diện của acid gallic, ester ethyl và hỗn hợp steroid (beta sitosterol và stigmasterol) có trong Diệp hạ châu.

Tác dụng lợi tiểu:

Y học cổ truyền một số nước đã sử dụng Diệp hạ châu làm thuốc lợi tiểu, trị phù thũng. Ở Việt Nam, Diệp hạ châu được dùng sớm nhất tại Viện Đông y Hà Nội (1967) trong điều trị xơ gan cổ trướng. Một nghiên cứu của trường Đại học Dược Santa Catarina (Brazil-1984) đã phát hiện một alkaloid của Diệp hạ châu (phyllan thoside) có tác dụng chống co thắt cơ vân và cơ trơn, các nhà khoa học đã nhờ vào điều này để giải thích hiệu quả điều trị sỏi thận, sỏi mật của cây thuốc.

Điều trị tiểu đường:

Tác dụng giảm đường huyết của Diệp hạ châu (Phyllanthus niruri) đã được kết luận vào năm 1995, đường huyết đã giảm một cách đáng kể trên những bệnh nhân tiểu đường khi cho uống thuốc này trong 10 ngày.

Một số công dụng khác:

Theo kinh nghiệm của nhân dân một số nước Nam Mỹ, Diệp hạ châu được sử dụng như một thuốc điều trị chứng thống phong (gout), sốt rét, cảm cúm, u xơ tuyến tiền liệt, rối loạn kinh nguyệt,... một số nơi còn dùng Diệp hạ châu để thông sữa ở phụ nữ cho con bú.

Cho đến nay, những nghiên cứu về tác dụng phụ của Diệp hạ châu cho thấy: chưa gặp bất cứ độc tính nào ngoại trừ hiện tượng gây chứng chuột rút trong thời gian sử dụng thuốc. Nếu có hiện tượng chuột rút thì cần giảm 1/2 liều điều trị. Các nhà khoa học cũng chưa nhận thấy có bất kỳ sự tương tác nào của Diệp hạ châu với các thuốc khác. Vì thế, có thể sử dụng Diệp hạ châu trong thời gian dài để khôi phục sự bình thường của chức năng gan và giải độc cơ thể.

Mặc dù chưa có báo cáo nào về tác dụng bất lợi của thuốc trên phụ nữ có thai, cũng cần thận trọng khi sử dụng Diệp hạ châu trên phụ nữ có thai thời kỳ đầu.

Thị trường Việt Nam hiện có khá nhiều chế phẩm dùng điều trị viêm gan dưới dạng trà tẩm, trà túi lọc, viên nang, viên bao đường,... của nhiều cơ sở sản xuất và kinh doanh trong và ngoài nước, giúp cho bệnh nhân viêm gan có nhiều cơ hội chọn lựa theo khả năng và khẩu vị của mỗi người. Phần lớn nguyên liệu để sản xuất các chế phẩm này là từ nguồn hoang dại, mà một cây thuốc khi mọc ở vùng địa lý khác nhau, có thể có hiệu quả điều trị khác nhau. Tốt nhất, người tiêu dùng nên chọn các sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng, có số đăng ký của cơ quan có thẩm quyền.

TS. NGUYỄN PHƯƠNG DUNG (Khoa Y học Cổ truyền – Đại học Y Dược TP.HCM)