Những tiến bộ của y học trong điều trị HIV giúp những người bị nhiễm virus có chất lượng cuộc sống tốt hơn và kéo dài tuổi thọ. Đối với hầu hết mọi người, khi nhiễm virus HIV đều không ảnh hưởng đến khả năng làm việc, đi học hoặc giao tiếp xã hội..

       Chị Hoàng Thị B. là người bệnh HIV/AIDS được điều trị, sau 13 năm điều trị ARV chị vẫn mạnh khỏe và có cuộc sống như những người bình thường khác. Chị chia sẻ “Khi phát hiện nhiễm HIV, CD4 của chị chỉ còn dưới 200 tế bào. Sức khỏe suy giảm nghiêm trọng, chị bị nhiễm lao, nhiễm nấm, tiêu chảy, sút cân,... Vậy nhưng sau thời gian điều trị thuốc kháng vi rút ARV và điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội, sức khỏe của chị đã nhanh chóng hồi phục”.

      Để được điều trị ARV, người nhiễm HIV/AIDS cần đến cơ sở y tế để đăng ký điều trị. Người bệnh sẽ được lập hồ sơ, bệnh án, kiểm tra sức khỏe tổng thể và thực hiện các xét nghiệm chuyên sâu để điều trị HIV/AIDS, được điều trị thuốc kháng vi rút ARV và điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Tại tuyến tỉnh, cơ sở điều trị ARV được mở tại Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện đa khoa các huyện và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật đã tạo điều kiện thuận lợi để người bệnh được tiếp cận điều trị thuốc ARV và các dịch vụ chăm sóc điều trị HIV/AIDS được thanh toán qua bảo hiểm y tế. 

        Theo các chuyên gia điều trị ARV sẽ ức chế sự phát triển của vi - rút giúp cho người nhiễm HIV/AIDS hồi phục hệ miễn dịch, ổn định sức khỏe, để tiếp tục sống học tập, lao động. Giúp giảm chi phí thuốc, chi phí khám, chữa bệnh và chi phí nằm viện, từ đó giảm gánh nặng về kinh tế cho gia đình và ngành Y tế trong hoạt động điều trị và dự phòng. Điều trị ARV còn giúp giảm nguy cơ lây nhiễm vi rút sang người khác như vợ chồng, bạn bè, con cái. Đặc biệt, nếu phụ nữ mang thai nhiễm HIV được điều trị dự phòng bằng ARV ở giai đoạn sớm và con của họ được dùng sữa ăn thay thế sữa mẹ thì tỷ lệ lây nhiễm có thể dưới 2%.

        Vì vậy, chúng ta hãy tìm hiểu mục tiêu, nguyên tắc, chỉ định điều trị ARV cho bệnh nhân HIV.

1. Mục tiêu

- Ức chế sự nhân lên của virus và kìm hãm lượng virus trong máu ở mức thấp nhất.

- Phục hồi chức năng miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội

- Cải thiện chất lượng sống và tăng khả năng sống sót cho người bệnh.

2. Nguyên tắc điều trị

- Điều trị ARV là một phần trong tổng thể các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV/AIDS

- Điều trị ARV chủ yếu là điều trị ngoại trú và được chỉ định khi người bệnh có đủ tiêu chuẩn lâm sàng, và/hoặc XN chứng tỏ đã sẵn sàng điều trị.

- Bất cứ phác đồ nào cũng phải có ít nhất ba loại thuốc (liệu pháp kháng Retrovirus hoạt tính cao - HAART). Điều trị ARV thực hiện ngay khi chẩn đoán nhiễm HIV/đảm bảo điều trị hàng ngày, liên tục, suốt đời; người bệnh phải tuân thủ điều trị tuyệt đối để đảm bảo hiệu quả và tránh kháng thuốc.

- Người nhiễm HIV được điều trị ARV vẫn phải áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm virus cho người khác.

- Người nhiễm HIV được điều trị ARV khi tình trạng miễn dịch chưa hồi phục cần tiếp tục điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội

3. Chỉ định điều trị

         - Tất cả người nhiễm HIV không phụ thuộc giai đoạn lâm sàng, số lượng tế bào CD4.
       - Trẻ dưới 18 tháng tuổi có kết quả xét nghiệm PCR lần 1 dương tính hoặc có kháng thể kháng HIV dương tính đồng thời có biểu hiện bệnh lý HIV nặng. Ngừng điều trị ARV khi trẻ được xác định không nhiễm HIV.

          Tư vấn và thực hiện điều trị ARV trong ngày hoặc điều trị ARV nhanh trong vòng 1 tuần kể từ khi có kết quả xét nghiệm khẳng định HIV dương tính cho người nhiễm HIV đã sẵn sàng điều trị thuốc ARV.