Hiểu biết cơ bản về HPV đối với bệnh lý đường sinh dục
HPV là một trong những tác nhân lây nhiễm qua đường tình dục phổ biến. Biểu hiện lâm sàng là hình ảnh u sùi điển hình vùng hậu môn-sinh dục như âm hộ, âm đạo, trực tràng, vùng hậu môn, dương vật và u sùi vùng hầu họng đặc biệt là ung thư cổ tử cung (CTC). Virus HPV có nhiều type, trong đó có 2 type gây nguy cơ ung thư cao là các type 16, 18. Chính vì thế xét nghiệm chẩn đoán HPV là một xét nghiệm quan trọng trong nghiên cứu cũng như chẩn đoán
- Human Papilloma virus (HPV) thuộc họ Papillomaviridae. HPV được lây truyền qua da và phổ biến nhất là qua đường tình dục và tất nhiên những nơi có tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp như âm đạo, cổ tử cung, hậu môn, đường niệu, bàng quang, miệng, mắt… , hôn, đồng tính luyến ái, gây lây nhiễm qua niêm mạc miệng và từ đó xâm nhập vào cơ thể.
- Người bị nhiễm HPV có thể biểu hiện lâm sàng là các thương tổn tại chỗ với trạng thái tăng sinh nội mô biểu bì thuộc nhiều dạng khác nhau như sùi niêm mạc, viêm, xơ cứng biểu mô, khối u papilloma vùng sinh dục, vùng hầu họng, dạng tăng sinh tế bào keratin. Hầu như mọi type HPV đều có biểu hiện đặc trưng liên quan đến papilloma vùng sinh dục như condyloma, u xơ và u mềm cổ tử cung….
- Hiện nay nguyên nhân gây nên ung thư CTC đã được biết một cách rõ ràng là do HPV gây ra. HPV được chia làm hai nhóm, nhóm nguy cơ cao và nguy cơ thấp (về tính gây ung thư).
- Nhóm nguy cơ cao có liên quan trực tiếp đến bệnh lý ung thư chúng được phát hiện có mặt trên 90% các trường hợp ung thư CTC (ung thư tế bào lát hay ung thư tế bào tuyến), trái lại nhóm nguy cơ thấp thì hiếm gặp trong trong các trường hợp ung thư.
- Có nhiều hơn 100 type HPV có vai trò gây bệnh liên quan đến bệnh lý da và niêm mạc và khoảng 40 type có tác động lên đường sinh dục, đặc biệt liên quan đến bệnh lý ung thư CTC. Nhóm được gọi là nguy cơ cao bao gồm các type 16 (HPV-16), 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 59, 66 và HPV-68. Các type HPV-6,11, 42, 43, 44 được gọi là nhóm nguy cơ thấp.
Cơ chế gây bệnh của HPV
- HPV tác động chủ yếu vào biểu mô lát tầng không sừng hóa của cổ tử cung tại nơi tiếp giáp giưã cổ trong và cổ ngoài (nơi tiếp giáp 2 loại biểu mô khác nhau: biểu mô tế bào trụ tuyến và biểu mô lát tầng không sừng hóa). Biểu mô lát tầng không sừng hóa có khả năng bảo vệ và được phát triển lên hướng bề mặt, sau đó sẽ bong ra. Khi nhiễm virus những tổn thương ban đầu có thể xảy ra ở biểu mô lát vốn không tiếp xúc với mạch máu, do đó không gây ra hiện tượng viêm, không hoạt hóa miễn dịch và hầu như miễn nhiễm sau khi đã nhiễm tự nhiên HPV.
- Khi virus tấn công được vào vào lớp tế bào đáy, lớp tế bào này vốn có khả năng sinh sản cao và gây nên hiện tượng phát triển mạnh hơn bình thường, rồi đến nhiều lớp tế bào sau đó. Khi các tế bào phát triển bất thường này chiếm toàn bộ các lớp tế bào của biểu mô lát gây hiện tượng dị sản hay ung thư tại chỗ. Sau đó có khả năng lan sâu xuống màng đáy và hình thành ung thư CTC giai đoạn xâm lấn.
Xét nghiệm chẩn đoán HPV
- Năm 1949 George Papanicolaou đã đưa ra một phương pháp tế bào học phát hiện những bất thường của tế bào biểu mô CTC để phát hiện sớm ung thư CTC, được gọi là PAP’s smear. Nguyên lý dựa trên tính chất bong ra một cách tự nhiên, liên tục của tế bào âm đạo, CTC, đặc biệt là các tế bào bất thường thì tính bong sớm và rất dễ bong.
- Phân tích hình thái học chi tiết người ta cho rằng dấu hiệu của tế bào bị nhiễm HPV là sẽ bị biến đổi thành các dạng tế bào đa nhan, tế bào đa nhân khổng lồ, hoặc nhân teo lại, hay có thể tìm thấy tế bào bóng, tế bào có vòng sáng quanh nhân….
- Phương pháp PAP’s smear có độ nhạy 44- 78% và độ đặc hiệu cao 91-9 6%. Tuy nhiên phương pháp này cũng có tỉ lệ âm tính giả, theo các tác giả giao động từ 1,1 -29,7%.
Ngày nay nhờ sự phát triển của sinh học phân tử, đặc biệt là kỹ thuật PCR cho phép nhận biết chính xác có nhiễm HPV hay không và nhiễm type nào để tìm thấy nguy cơ cao hay thấp có khả năng dẫn đến ung thư CTC.
PAP’s smear và HPV – PCR:
- Xét nghiệm HPV-PCR có giá trị khác đối với xét nghiệm PAP’s smear. Với PAP’s smear ta có thể nói có hay không tổn thương nghi ngờ ác tính hay không ác tính trên CTC. Trong khi đó xét nghiệm HPV-PCR sẽ nói hiện tại có nhiễm HPV hay không, nếu có là nhóm nào – nguy cơ cao hay nguy cơ thấp. PCR được dùng để định type HPV bằng bệnh phẩm lấy từ âm đạo - cổ tử cung hoặc mảnh sinh thiết cổ tử cung.
- HPV- PCR dương tính không có nghĩa là ung thư CTC, việc nhận định có nhiễm HPV hay không có nhiễm HPV không nói được tình trạng mô học hay tế bào học của CTC mà chỉ có thể nói rằng người được thử đang trong tình trạng nhiễm HPV. Xét nghiệm HPV-PCR ngày nay được khuyến cáo sử dụng kèm với xét nghiệm PAP’s smear nhằm nâng cao khả năng sàng lọc các trường hợp nghi ngờ, giúp theo dõi bệnh chặt chẽ hơn và có hiệu quả thật sự trong tầm soát ung thư CTC.
Xét nghiệm HPV- DNA
- Do không thể nuôi cấy virus HPV theo kiểu kinh điển và các test huyết thanh có độ nhạy rất thấp, chẩn đoán nhiễm HPV đòi hỏi phải phát hiện bộ gen của nó trong mẫu bệnh phẩm tế bào từ cổ tử cung. Bệnh phẩm có thể do cán bộ y tế hoặc do chính khách hàng/bệnh nhân tự lấy.
- Các kỹ thuật phân tử phát hiện HPV- DNA có thể được chia thành hai nhóm: Có khuếch đại và không khuếch đại. Test dùng trong nghiên cứu lâm sàng thường là test khuếch đại, còn được chia thành 2 nhóm nhỏ là khuếch đại tín hiệu và khuếch đại chính bộ gen của HPV. Các test đại biểu cho nhóm test khuếch đại là Hybrid Capture II (HCII, Qiagen, USA), cobas HPV test (Roche, Thụy Sĩ) .
- Xét nghiệm HPV- DNA có độ nhạy cao và giá trị dự báo âm tính cao. Nếu test HPV- DNA âm tính, gần như không có nguy cơ hình thành bất thường tế bào rõ (CIN III) trong vòng 6 - 10 năm sau đó. Điều này cho phép giãn thời gian sàng lọc và giảm số lần sàng lọc trong cuộc đời người phụ nữ. Khi HPV- DNA dương tính, thực hiện xét nghiệm định genotype và xét nghiệm phát hiện sự gắn chèn của HPV vào bộ gene người để tiên lượng ung thư cổ tử cung và có hướng xử lý kịp thời.
HPV xâm nhiễm vào cơ thể và có biểu hiện lâm sàng, chủ yếu do các type thuộc nhóm “nguy cơ cao”, gây biến đổi tế bào về mặt hình thái và cấu trúc. Những tế bào mẫn cảm với virus chủ yếu ở vùng sinh dục, đặc biệt là CTC. Tuy nhiên không phải nhiễm HPV là có ung thư CTC, do vậy ngoài các xét nghiệm chẩn đoán HPV thì phụ nữ cũng nên đi khám phụ khoa định kỳ để phát hiện các bệnh phụ khoa khác.