Theo Tổ chức Globocan thuộc WHO, năm 2012, có 952.000 ca ung thư dạ dày mới (chiếm 6,8% tổng số các loại K) được phát hiện trên toàn thế giới. Tỷ lệ K dạ dày xếp thứ 5 trong số các K, sau K phổi, vú, đại trực tràng và tuyến tiền liệt. Hơn 70% các ca K dạ dày xảy ra ở các nước đang phát triển và khoảng 50% xảy ra ở Đông Á, chủ yếu là Trung Quốc. Tỷ lệ mắc K dạ dày từ 3,3 đối với nam và 2,6 đối với nữ ở Tây Phi đến 35,4 đối với nam và 13,8/100.000 đối với nữ ở Đông Á.


     K dạ dày là nguyên nhân gây tử vong thứ ba ở cả hai giới trên thế giới, với 723.000 ca tử vong (chiếm 8,8%) trong năm 2012. Tỷ lệ tử vong do K dạ dày cao nhất xảy ra ở Đông Á (24/100.000 đối với nam và 9,8/100.000 đối với nữ).
Tại Việt Nam, K dạ dày có tỷ lệ mắc vào loại cao nhất thế giới (>15,4/100.000 đối với nam và >8,2/100.000 đối với nữ) . Mỗi năm Việt Nam phát hiện khoảng 10.000 ca K dạ dày.
     Các yếu tố nguy cơ của K dạ dày có thể gồm: nhiễm Helicobacter pylori (65-80%), tiền sử gia đình bị K dạ dày (10%), tuổi (74 ở nam, 74 ở nữ) uống rượu, hút thuốc lá, ăn nhiều muối, béo phì, …
      Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng viêm teo dạ dày (atrophic gastritis) và chuyển sản ruột (intestinal metaplasia) là các tổn thương tiền ung thư (precancerous lesions) của ung thư dạ dày.
       Nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm tỷ lệ sống sót trên 5 năm của bệnh nhân K dạ dày vượt quá 90%.
        Các phương pháp chẩn đoán viêm teo dạ dày và chuyển sản ruột là nội soi dạ dày, mô bệnh học và định lượng PG1, PG2 và tỷ lệ PG1/PG2.

1. Sinh học của pepsinogen

Pepsinogen (PG) là tiền enzyme (proenzyme) của pepsin - một enzyme thủy phân protein- được bài tiết bởi các tế bào niêm mạc của dạ dày. Pepsinogen là một protein gồm 375 gốc acid amin, có khối lượng phân tử 42 kDa. Pepsinogen được tồn tại dưới hai dạng: pepsinogen I (PG I) và pepsinogen II (PG II). Pepsinogen I được tổng hợp bởi các tế bào chính của niêm mạc ở vùng đáy dạ dày, trong khi PG II được tổng hợp bới các tế bào niêm mạc của tất cả các vùng tâm vị, vùng đáy, vùng hang vị và của hành tá tràng (Mukoubayashi C, et al 2007 [8]) (Hình 1).


 


Hình : Sự sản xuất pepsinogen I (màu đỏ) và pepsinogen 2 (màu vàng) ở các vùng khác nhau của dạ dày và hành tá tràng: 1: vùng tâm vị (cardia), 2: vùng đáy vị (fundus), 3: vùng hang môn vị (pylonic antrum), 4: hành tá tràng (duodenum).

 

     Pepsinogen không chỉ được tiết vào trong lòng dạ dày, được thủy phân thành pepsin nhờ tác dụng hoạt hóa của acid chlohydric của dạ dày để thủy phân protein thức ăn, mà một phần nhỏ còn được bài tiết vào máu. Mức độ của hai loại pepsinogen I và II huyết thanh phản ánh tình trạng hình thái và chức năng của các phần khác nhau của niêm mạc dạ dày-hành tá tràng. Khi hoạt động của niêm mạc vùng đáy dạ dày bị giảm, mức đô pepsinogen I huyết thanh giảm, trái lại mức độ PGII huyết thanh không thay đổi. Kết quả là, sự giảm dần của tỷ số PGI/PGII liên quan chặt chẽ với sự tiến triển tăng dần từ niệm mạc vùng đáy bình thường thành viêm teo dạ dày, lúc này số lượng tế bào chính giảm đi. Chính vì vậy, sự giảm mức độ pepsinogen I huyết thanh và tỷ lệ PGI/II có thể được sử dụng để đánh giá nguy cơ và phát hiện sớm ung thư dạ dày ở bệnh nhân.

2. Chỉ định của xét nghiệm PGI, II và tỷ lệ PGI/PGII

- Các xét nghiệm pepsinogen I, II và tỷ lệ PGI/II được sử dụng để sàng lọc và chẩn đoán ung thư dạ dày nên thường được chỉ định khi bệnh nhân có các triệu chứng sớm của ung thư dạ dày như:
+ Khó tiêu dai dẳng
+ Ợ hơi
+ Cảm thấy no rất nhanh khi ăn
+ Đầy hơi sau khi ăn
+ Mệt mỏi
+ Đau vùng thượng vị
+ Nôn
Các xét nghiệm này cũng có thể được chỉ định khi bệnh nhân có các triệu chứng muộn của ung thư dạ dày như:
+ Xuất hiện máu trong phân hoặc phân đen
+ Ăn mất ngon
+ Giảm cân
+ Ứ dịch trong dạ dày
+ Thiếu máu
+ Vàng da, vàng mắt

3. Giá trị tham chiếu của PGI, II và tỷ lệ PGI/PGII

Giá trị bình thường của mức độ PGI huyết thanh ở những người khỏe mạnh là: PGI là 215,7 ± 15,0 ng/mL, của PGII là 18,3 ± 2,0 ng/mL và của PGI/PGII là 13,2 ± 0,6 (De Re, et al 2016).

Mức độ PGI, PGII và tỷ lệ PGI/II ở nam cao hơn ở nữ và tăng dần theo tuổi (Huang RG, et al 2016 ).

Giá trị cắt (cut-off) bình thường của mức độ PGI huyết thanh được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới là > 70 ng/mL, của PGII là 7,5 ng/mL và của tỷ lệ PGI/II là > 3.

 

4. Chiến lược sàng lọc viêm teo và ung thư dạ dày

4.1. Mức độ nguy cơ ung thư dạ dày đánh giá theo PGI, PGII, tỷ lệ PGI/PGII và trạng thái Hp.

Mức độ nguy cơ K dạ dày đánh giá theo PGI, PGII, tỷ lệ PGI/PGII và trạng thái Hp được chia thành 4 nhóm với các cut-off PGI<70mg/mL và PGI/PGII<3,0.


 

Nhóm

A

B

C

D

Pepsinogen

(-) tính

(-) tính

(+) tính

(+) tính

H.pylori

(-) tính

(+) tính

(+) tính

(-) tính

Nguy cơ K dạ dày

Thấp

Vừa

Cao

Rất cao

Tỷ lệ Odds

1,00

4,20

11,23

14,81

Nội soi dạ dày

5 năm/lần

3 năm/lần

2 năm/lần

1 năm/lần


4.2. Chiến lược sàng lọc ung thư dạ dày dựa vào PG và HP


Chiến lược sàng lọc nhằm phát hiện sớm K dạ dày được dựa vào tình trạng pepsinogen và Hp của bệnh nhân
 


Khi bệnh nhân có nguy cơ cao hoặc rất cao, cần nội soi dạ dày, sinh thiết khối u để phát hiện sớm K dạ dày và làm thêm một số dấu ấn khối u dạ dày CA 72-4, CA 19-9, CEA để đánh giá hiệu quả điều trị và tiên lượng bệnh.
 

KẾT LUẬN


1. Mức độ PGI với giá trị cắt (cut-off) là ≤70 ng/mL và tỷ lệ PGI/II với giá trị cắt ≤ 3 thường được sử dụng trong sàng lọc và chẩn đoán sớm viêm teo dạ dày và ung thư biểu mô dạ dày.

2. Trong viêm teo dạ dày, mức độ PGI huyết thanh và tỷ lệ PGI/II giảm một cách rất rõ rệt.

3. Trong ung thư dạ dày, mức độ PGI, PGII và tỷ lệ PGI/II đều giảm một cách rất rõ rệt, riêng trong H.pylori (+) tính, mức độ PGI ít thay đổi, PGII tăng rất rõ rệt, trong khi tỷ lệ PGI/PGII cũng giảm rất rõ rệt.

4. Sự kết hợp giữa PGI, PGII và tỷ lệ PGI/II có thể giúp chẩn đoán phân biệt ung thư dạ dày với các bệnh dạ dày lành tính khác.

5. Khi có nguy cơ cao hoặc rất cao, cần nội soi dạ dày, sinh thiết khối u để phát hiện sớm K dạ dày và làm thêm các dấu ấn CA 72-4, CA 19-9, CEA để đánh giá hiệu quả điều trị, tái phát và tiên lượng.

6. Việc sàng lọc và chẩn đoán sớm ung thư dạ dày thực sự đã làm tăng tỷ lệ sống sót trên 5 năm của bệnh nhân từ <20% lên trên 90%.

PGS TS Nguyễn Nghiêm Luật