(tiếp)

4. Tổng cộng có 229 trường hợp thực hiện đồng thời kiểu gen HCV và định lượng siêu vi C trong máu.
Tuổi nhỏ nhất là 19, lớn nhất là 77 với độ tuổi trung bình 47,92±10,56.
Nam có 135 trường hợp (59%) với độ tuổi trung bình 47,49±11,44.
Nữ có 94 trường hợp (41%) với độ tuổi trung bình 48,54±9,18.
Bảng 3.

 

³  2x10­6  bản sao/ml

<  2x10­6 bản sao/ml

P

Kiểu gen 1

91

46

P= 0,183

Kiểu gen 2

18

15

Kiểu gen 6

32

27

Số lượng siêu vi viêm gan C ( Bản sao/ml) trong các kiểu gen 1, 2 và 6.

Bảng 4.

 

Kiểu gen 1

Kiểu gen 2

Kiểu gen 6

Tổng cộng

Trung bình

7,058x10­6

7,145x10­6

4,701x10­6

6,463x10­6

SD

9,075x10­6

9,805x10­6

5,779x10­6

8,497x10­6

Tổng cộng

137

33

59

229

IV. Bàn luận:
1. Kiểu gen HCV.
Có 2 cách để xác định loại HCV: Phương pháp gián tiếp là phương pháp miễn dịch, nghĩa là qua phản ứng kháng nguyên kháng thể ta sẽ xác định được kiểu của kháng thể, từ đó biết được type huyết thanh của siêu vi C (HCV serotype); Và phương pháp trực tiếp dựa trên sự phân tích trực tiếp trên gen của siêu vi C để xác định kiểu gen của siêu vi C (HCVgenotype) 2,15. Trước đây, tại phòng xét nghiệm của chúng tôi có thực hiện kỹ thuật miễn dịch trong xác định type huyết thanh siêu vi C. Ưu điểm của kỹ thuật này là đơn giản, không sợ nguy cơ ngoại nhiễm và có thể thực hiện hoàn toàn trên máy tự động. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn còn ít nhiều nhược điểm như không định được chi kiểu (subtype), không biết được tình trạng bệnh nhân có hay không có HCVRNA (Tình trạng siêu vi đang tăng sinh để điều trị đặc hiệu), ở bệnh nhân bị ức chế hay suy giảm miễn dịch sẽ không có anti HCV từ đó không xác định được loại HCV, không phân biệt được giữa anti HCV nhiễm trước đây còn tồn tại và loạiHCV đang nhiễm…1,3,4,7Và một điều cực kỳ quan trọng là sự phù hợp giữa type huyết thanh và kiểu gen vẫn còn nhiều khác nhau theo các nhóm tác giả khác nhau 2,23. Do đó, chúng tôi đã tiến hành thực hiện kỹ thuật LiPA như một xét nghiệm thường qui trong xác định kiểu gen của siêu vi viêm gan C.
Cho đến nay, LiPA vẫn là một trong những kỹ thuật sinh họcphân tử được sử dụng rộng rãi trên thế giới trong việc xác định kiểu gencủa siêu vi viêm gan C5,10,15. Kỹ thuật này đạt được độ nhạy cao nhờứng dụng kỹ thuật PCR tổ ( Độ nhạy của PCR tổ cao nhờ sử dụng 2 cặp mồiđặc hiệu để khuếch đại); Và nhờ việc dùng 2 cặp mồi một lúc cùng vớiđiều kiện lai nghiêm ngặt nên kỹ thuật này có độ đặc hiệu rấtcao5,24.Ngoài ra, LiPA xác định được các kiểu gen và chi kiểu thường gặpcủa HCV; Mặc khác trang thiết bị của kỹ thuật này giống như của mộtphòng xét nghiệm cho PCR bình thường, và bộ thuốc thử cũng có sẵn chonên rất thuận tiện cho các phòng xét nghiệm lâm sàng thực hiện như mộtkỹ thuật thường qui.
Kỹ thuật LiPA xác định được 6 kiểu gen và 16chi kiểu thường gặp của HCV12,24. Trong thời gian từ tháng 04/2004 đếntháng 1/2005 chúng tôi thực hiện kiểu gen HCV cho 327 trường hợp bệnhnhân người Việt Nam. Kết quả bảng 1 cho thấy kiểu gen HCV chủ yếu ởngười Việt Nam là kiểu gen  1 ( Chiếm 58,4%), tiếp theo là kiểu gen 6(23,9%), và kiểu gen 2 (13,1%). Nếu phân loại ở mức độ chi kiểu thìchiếm chủ yếu ở Việt Nam là kiểu gen 1b (45,9 %). Kết quả này cũng phùhợp với các nghiên cứu trước đây về kiểu gen HCV ở bệnh nhân là người Việt Nam4,15,17,20,26 ( Xem bảng so sánh).

Tác giả- Địa điểm

Số trường hợp

Kiểu gen 1

Kiểu gen 1b

Kiểu gen 6a

Không định kiểu gen được

Ghi chú

T.K.Anh. TP HCM

42

47,6%

23,8%

o

9,6%

Primer-Specific

N.T.Hảo. Hà Nội

123

69,8%

48,8%

14,6%

2,4%

LiPA

Tokita.HCM

83

54%

   

5%

Type 6-9: 36%

P.Trimoulet. Mỹ.1999

11

50%

40%

50%

9%

Sequencing. 5’UT

Mindie H. Nguyen.USA

308

44,1%

?

14%

0

Sequencing.Core.Type 7(14,3%), 8/9(3,2%)

Anouk.Dev.
SEA.
Uc

70

77%

60%

10%

0

Sequencing.Core.Type 1b: 36% là type 7,8. Type 9: 10%(type7), 1,4%(type 9).

So sánh kết quả kiểu gen HCV được xác định bằng kỹ thuật LiPA với typehuyết thanh HCV được thực hiện trên máy miễn dịch, dùng đoạn khángnguyên NS4 ( Vùng không cấu trúc) thì 2 kết quả không phù hợp nhau.Trong một nghiên cứu trước đây của chúng tôi thực hiện type huyết thanhHCV ở 169 trường hợp, kết quả là type huyết thanh 6 là chiếm  nhiều nhất(44,38%), thứ 2 là type huyết thanh 1 (37,28%), có 10,65% là type huyếtthanh 2, tỷ lệ không xác định được type huyết thanh là 5,92% và khôngxác định được các chi kiểu. Tỷ lệ phân loại của HCV giữa type huyếtthanh và kết quả xác định kiểu gen bằng LiPA không phù hợp nhau, điềunày cũng đã được nhiều nghiên cứu trước đó xác nhận2,7,23.

2. Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật LiPA trong việc xác định kiểu gen HCV ở người Việt Nam.
Đoạn gen để phân tích kiểu gen HCV là 5’ UT: Có phù hợp ở Việt Namkhông? Cho đến  nay, để thực hiện chính xác kiểu gen HCV là phải phântích trên đoạn Core hoặc NS5B của bộ gen HCV4,15,16. Vì trên đoạn 5’UT (Là vùng DNA đích để phân tích kiểu gen của kỹ thuật LiPA) sẽ có nhượcđiểm là không xác định được một số kiểu gen HCV mới như kiểu gen 7, 8,9. Và trong kỹ thuật LiPA thì các kiểu gen mới này ( Kiểu gen 7, 8, 9),là những kiểu gen hay gặp ở các nước vùng Đông Nam Á, sẽ bị phân loạilầm ( Misclassify) thành kiểu gen 1b4,8,15,16. Đây có thể xem là nhượcđiểm lớn nhất của LiPA trong xác định kiểu gen HCV ở người Việt Nam cũngnhư của vùng Đông Nam Á. Do đó, trong tương lai, chúng tôi sẽ tiến hànhthực hiện LiPA với thế hệ mới ( Nếu có, phân tích trên đoạn NS5B), hoặcthực hiện kỹ thuật xác định trình tự chuỗi ( Sequencing) để xác địnhchính xác hơn kiểu gen HCV nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu điều trị đặchiệu HCV.
Theo Anouk T.Dev et al (Úc, 2002) và Mindie H. Nguyễn (Mỹ,2004): Kết quả kiểu gen HCV 7, 8, 9 sẽ là 1b khi dùng kỹ thuật LiPA vàđáp ứng điều trị kiểu gen 1b của bệnh nhân vùng Đông Nam Á tốt hơn bệnhnhân da trắng. Đồng thời, đáp ứng điều trị của các kiểu gen 7, 8, 9 thìtốt hơn kiểu gen 1b4,15. Tuy nhiên, vấn đề kiểu gen mới và đáp ứng điềutrị đặc hiệu  của nó cần phải nghiên cứu thêm
, đặc biệt là bệnh nhân người Việt Nam.
Trong 327 trường hợp thực hiện LiPA của chúng tôi, có 14 trường hợp(4,3%) không xác định được kiểu gen HCV5. Mẫu của các trường hợp đó đượctiếp tục thực hiện giải trình tự chuỗi của HCV trên hệ thống Trugene (Bayer) để xác định kiểu gen HCV, và tất cả đều xác định được kiểu genvới kỹ thuật giải trình tự chuỗi: 2 trường hợp kiểu gen 1; 2 trường hợpkiểu gen 1b; 1 trường hợp kiểu gen 2a; 1 trường hợp kiểu gen 2c; 8trường hợp kiểu gen 6a. Như vậy, kỹ thuật giải trình tự chuỗi có thểthích hợp hơn cho xác định kiểu gen HCV, nhưng do số liệu còn hạn chếnên vấn đề này cần phải có thời gian để nghiên cứu số liệu nhiều hơncũng như giá thành của trang thiết bị cho thực hiện giải trình tự nhưmột xét nghiệm thường qui.

3. Số lượng siêu vi C và kiểu gen HCV.
Trong điều trị đặc hiệu cho HCV, số lượng siêu vi C trong máu và kiểugen là 2 yếu tố quan trọng nhất trong việc tiên lượng khả năng thànhcông cao hay thấp của điều trị cũng như thời gian cần thiết cho điềutrị. Ở kiểu gen 1 thì thường khó đáp ứng với điều trị so với kiểu gen 2,3 và cả kiểu gen 6, do đó chúng tôi thử tìm có hay không mối liên quangiữa số lượng siêu vi C trong máu và kiểu gen HCV1,3,9,22,28. Trongnghiên cứu này, chúng tôi ứng dụng kỹ thuật bDNA (Khuếch đại tín hiệu)để định lượng siêu vi C trong máu. Ưu điểm của kỹ thuật này là tín hiệunhận được sẽ tuyến tính với số lượng siêu vi C trong mẫu, từ đó giúp choviệc định lượng chính xác hơn, tuy nhiên lại có một nhược điểm là độnhạy thấp nên sẽ có một số trường hợp dưới ngưỡng định lượng được (3200bản sao/ml ) mà siêu vi C vẫn còn hoạt động nên vẫn lây nhiễm. Theo bảng3, có 91 trường hợp kiểu gen 1 có lượng siêu vi C cao hơn 2x10­6 bảnsao/ml (Là ngưỡng để đánh giá lượng siêu vi C trong máu cao haythấp1,5,6,28), và ở kiểu gen 2, 6 là 18, 32 trường hợp. Trong nhóm lượngsiêu vi C nhỏ hơn 2x10­6 bản sao/ml ở kiểu gen 1, 2 và 6 lần lượt là46, 15, 27 trường hợp. Tuy ở kiểu gen 1 số trường hợp nhiều hơn 2x10­6bản sao/ml chiếm cao gần gấp đôi so với số trường hợp nhỏ hơn 2x10­6 bảnsao/ml ( 91/46), và ở kiểu gen 2 (18/15), ở kiểu gen 6 (32/27), nhưngtheo phép tính Chi-Square thì sự khác biệt của lượng siêu vi  tùy thuộcvào kiểu gen HCV không có ý nghĩa thống kê (P >0.05): Kiểu gen 1không có nghĩa là luợng siêu vi C nhiều hơn ở kiểu gen 2 & 6 vàngược lại7,9. Qua bảng 4 cũng cho ta thấy trị số trung bình cũng như độlệch chuẩn (SD) của số lượng siêu vi C giữa các kiểu gen 1, 2 và 6 khôngcó sự khác biệt rõ rệt.

4. Sự thay đổi của men gan ( SGOT, SGPT).
Tăng men gan ( SGOT, SGPT) thường là dấu hiệu sự tổn thương và hoại tửcủa tế bào gan. Sự thay đổi của men gan trong nhiễm HCV thường khôngnhiều6,12,18,21, đa số ở trong giới hạn bình thường làm cho chúng takhông lưu tâm và bỏ sót bệnh nếu không nghĩ đến nhiễm HCV. Qua nghiêncứu 327 trường hợp nhiễm HCV, chúng tôi ghi nhận giá trị SGOT là53,95±45,56 U/L và SGPT là 53,31±51,15 U/L.

V. Kết luận:
Kiểu gen HCV 1 chiếm nhiều nhất, thứ 2 là kiểu gen 6 ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm về các kiểu gen 7, 8, 9 là những kiểu gen mới hay gặp ở Đông Nam Á cũng như đáp ứng với điều trị đặc hiệu. Trong nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy có mối liên quan giữa số lượng siêu vi C và kiểu gen HCV. Với kỹ thuật LiPA: 4,3% không định được kiểu gen HCV, và tất cả các trường hợp đó đều xác định được kiểu gen bằng kỹ thuật giải trình tự chuỗi, do đó có thể giải trình tự chuỗi có hiệu quả hơn trong việc xác định kiểu gen HCV.