Nhiễm HIV chưa hẳn là bản án tử hình. Khi mà người ta có thể chung sống “hòa bình” bằng một số loại thuốc trị HIV. Vì thế nếu bạn không may mắn mang trong mình căn bệnh thế kỷ HIV cũng đừng bi quan, thất vọng. Ngược lại chúng ta hãy cùng tìm hiểu thuốc điều trị HIV là loại thuốc gì? 

        Nhờ sự phát triển của ngành y khoa, từ lâu HIV không còn là bản án tử hình với người bệnh. Thuốc điều trị HIV thực chất là một nhóm thuốc có khả năng chống lại virus HIV. Thuốc này có tên là ARV và là viết tắt của Antiretrovaral. Thuốc được chế ra với mục đích làm giảm sự phát triển của virus HIV trong cơ thể người bệnh. Nếu người bệnh điều trị tuân thủ chỉ định và đáp ứng thuốc sẽ làm chậm sự tiến triển hoàn toàn của AIDS. Điều này có nghĩa sử dụng thuốc điều trị người bệnh sẽ kéo dài thời gian trước khi bước qua giai đoạn cuối của sự nhiễm HIV. Đồng thời sử dụng thuốc đúng chỉ định, duy trì tải lượng virus dưới ngưỡng phát hiện sẽ giúp ngăn ngừa lây truyền HIV qua đường tình dục, tỷ lệ lây nhiễm HIV từ mẹ sang con giảm xuống dưới 2%.

       Hiện nay trên thế giới có các nhóm thuốc ARV sau:

1. Nhóm ức chế men sao chép ngược nucleosid (NRTIs)

Thuốc có cấu trúc nuleosid hoặc nucleotid, có tác dụng ngăn chặn sự nhân lên của virus. Nó làm điều này bằng cách liên kết và thay đổi một enzyme gọi là enzyme sao chép ngược, mà virus HIV sử dụng để sao chép. Bao gồm các thuốc: Zidovudin (AZT), Abacavir (ABC), lamivudin (3TC), tenofovir (TDF), Emtricitabine (FTC)…

2. Nhóm ức chế men sao chép ngược không phải là nucleosid (NNRTIs)

Thuốc cũng có tác dụng ức chế men sao chép ngược nhưng có cấu trúc không giống nucleoside. Bao gồm các thuốc: Nevirapin (NVP), delavirdin (DLV), Efaviren (EFV)…

3. Nhóm ức chế men protease (PI)

Các tế bào HIV đang phát triển sử dụng một loại enzyme gọi là protease để trưởng thành và nhân lên. Protease là loại men cho phép virus lây lan sang các tế bào khác trong cơ thể. Thuốc có tác dụng làm cho các protein được mã hóa bởi các gen Gag, Pol không tách thành các protein hoạt động, bao gồm: Indinavir (IDV), saquinavir (SQV), ritonavir (RTV), nelfinavir (NFV), amprenavir (APV), lopinavir (LPV).

4. Nhóm ức chế tích hợp (INSTIs)

Sau khi vào tế bào bạch cầu, HIV có thể sao chép bằng cách chèn hoặc tích hợp DNA của nó vào tế bào. Quá trình này dựa vào một enzyme gọi là integrase. INSTIs vô hiệu hóa các hiệu ứng của integrase, do đó ngăn HIV chèn DNA của nó vào tế bào chủ. Kết quả là, HIV không thể tạo ra các bản sao của chính nó và điều đó có nghĩa chúng sẽ không thể nhân lên được nữa.

Nhóm này có các loại thuốc như: Dolutegravir (DTG), Raltegravir (Isentress).

Ngoài ra còn nhóm thuốc mới chưa được sử dụng rộng rãi:

5. Nhóm ức chế xâm nhập của virus (EI)

a) Chất ức chế hợp nhất

Để tái tạo thành công, HIV phải xâm nhập vào một tế bào và hợp nhất với nó, quá trình đó được gọi là hợp hạch. Chất ức chế hợp nhất là thuốc ngăn ngừa HIV xâm nhập vào tế bào.

Enfuvirtide, còn có tên gọi khác là Fuzeon, là thuốc duy nhất thuộc nhóm này.

          b) Thuốc đối kháng thụ thể CCR5

Để xâm nhập vào tế bào, trước tiên HIV phải liên kết với một thụ thể đặc biệt trên bề mặt tế bào. Thụ thể này còn được gọi là thụ thể CCR5. Thuốc đối kháng CCR5 là thuốc ngăn chặn đồng thụ thể CCR5, ngăn ngừa HIV bám vào và xâm nhập vào tế bào bạch cầu. Vì lý do này, các bác sĩ gọi thuốc đối kháng CCR5 là chất ức chế xâm nhập.

Maraviroc là một ví dụ về chất đối kháng CCR5, với tên biệt dược là Selzentry.

           c) Chất ức chế xâm nhập

Chất ức chế xâm nhập là một loại chất ức chế sự xâm nhập của các virus lạ. Những loại thuốc này ngăn chặn hai loại thụ thể trên bề mặt tế bào bạch cầu là các đồng thụ thể CCR5 và CXCR4. Cũng như thuốc đối kháng CCR5, các loại thuốc này ngăn ngừa HIV xâm nhập vào tế bào, do đó ngăn chặn virus nhân lên.

Ibalizumab là một chất ức chế xâm nhập và có tên biệt dược là Trogarzo.